BVNTD

Các Quy định về Cạnh tranh không lành mạnh tại Nhật.

22/07/2019

edf40wrjww2News:News_Content

Luật Cạnh tranh Nhật gồm Luật Chống độc quyền (Luật Chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng) và hai luật bổ trợ là Luật Chống các khoản thu lợi bất chính và các trình bày gây nhầm lẫn và Luật Hợp đồng phụ). Luật Hợp đồng phụ là bộ luật đặc thù của Nhật và không có mối liên hệ với các quy định hiện hành của Việt Nam về chống cạnh tranh không lành mạnh.

 Bên cạnh các quy định về chống độc quyền tư nhân, Chương V Luật Chống độc quyền Nhật Bản còn quy định các hành vi được xác định là các hành vi thương mại không lành mạnh (unfair trade practices). Tuy nhiên, định nghĩa “hành vi thương mại không lành mạnh” ở đây không hoàn toàn trùng với định nghĩa về “hành vi cạnh tranh không lành mạnh” được quy định trong Luật Cạnh tranh của Việt Nam. Thuật ngữ “các hành vi thương mại không lành mạnh” sử dụng trong Luật Chống độc quyền Nhật Bản được định nghĩa tại  Khoản 9 Điều 2 của Luật này, được hiểu là bất kỳ hành vi nào trong 15 hành vi được liệt kê tại Khoản 9. Các hành vi này gồm 16 hành vi, trong đó có 6 hành vi tương tự với các hành vi được quy định từ điều 39 – điều 48 Luật Cạnh tranh Việt Nam, bao gồm các hành vi:

1) Các hành vi từ chối giao dịch khác (Other refusal to deal): sử dụng các biện pháp không chính đáng khiến doanh nghiệp khác từ chối giao dịch với một doanh nghiệp nhất định, hoặc hạn chế về số lượng/tính chất của hàng hóa/dịch vụ trong giao dịch thương mại với một doanh nghiệp nhất định;

2) Sự xem xét phân biệt đối xử (Discriminatory consideration): cung cấp hoặc chấp nhận hàng hóa hoặc dịch vụ tại một mức giá phân biệt đối xử nhằm gây bất lợi hoặc tạo lợi ích cho một/các doanh nghiệp/người tiêu dùng nhất định, hoặc phân biệt đối xử giữa các doanh nghiêp/ người tiêu dùng khác nhau trong một khu vực địa lý nhất định;

3) Lôi kéo khách hàng một cách gian dối: dẫn dụ khách hàng của các đối thủ cạnh tranh giao dịch với mình bằng cách khiến họ nhầm lẫn về tính chất của hàng hóa hoặc dịch vụ của mình, hoặc nhầm lẫn về các điều khoản thương mại, hoặc nhầm lẫn về các vấn đề khác có liên quan đến giao dịch này là tốt hơn nhiều hoặc ưu đãi hơn nhiều so với giao dịch trên thực tế hoặc so với các đối thủ cạnh tranh.

4) Lôi kéo khách hàng bằng các khoản lợi nhuận không chính đáng (Customer inducement by unjust benefits): lôi kéo các khách hàng của đối thủ cạnh tranh chuyển sang giao dịch với mình bằng cách đưa ra các lợi ích không chính đáng căn cứ trên các hành vi kinh doanh thông thông thường;

5) Ép buộc trong kinh doanh (Tie-in sales): khiến một bên khác mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ mình hoặc từ mình hoặc từ một doanh nghiệp được chỉ định bởi chính mình bằng cách ép buộc bên đó giao dịch với mình hoặc với một doanh nghiệp đã chỉ định.

6) Gây rối hoạt động kinh doanh của đối thủ cạnh tranh (Interference with a competitor’s transactions): gây rối không chính đáng một giao dịch của một doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh nội địa của chính mình hoặc với tập đoàn mà mình là một cổ đông hoặc là một nhân viên, bằng cách ngăn cản việc thực thi kết quả của hợp đồng, hoặc bằng cách tạo ra sự vi phạm hợp đồng, hoặc bằng bất kỳ biện pháp nào khác.

Ngoài ra, điều 8 của Luật Chống độc quyền quy định cấm các Hiệp hội thương mại thực hiện một số hành vi, trong đó có các hành vi sau tương tự với các quy định về Phân biệt đối xử hiệp hội (Điều 47, Luật Cạnh tranh Việt Nam): Các Hiệp hội thương mại tại Nhật bị cấm không được thực hiện các hành vi:

1) Hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trong bất kỳ một lĩnh vực thương mại nào;

2) Hạn chế số lượng doanh nghiệp hiện tại hoặc tương lai trong bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh cụ thể nào;

3) Cản trở một cách không chính đáng các chức năng hoặc hoạt động của các doanh nghiệp thành viên.

Luật cấm các khoản thu lợi bất chính và chỉ dẫn gây nhầm lẫn là luật bổ trợ cho Luật chống độc quyền tư nhân và duy trì cạnh tranh công bằng với nội dung chính quy định cấm các khoản thu lợi bất chính (unjustifiable premiums), các chỉ dẫn gây nhầm lẫn về thành phần của hàng hóa, gây nhầm lẫn về điều khoản mua bán hàng hóa, và bất kỳ chỉ dẫn về hàng hóa nào do JFTC kết luận là gây nhầm lẫn dựa trên tiêu chí dẫn dụ khách hàng mua hàng một cách không chính đáng và cản trở cạnh tranh công bằng. Bên cạnh đó, Luật còn quy định chi tiết về các nội dung quảng cáo không chứng minh được (restrictions on uproven advertisement) cũng là các nội dung quảng cáo bị cấm: trong trường hợp JFTC muốn đánh giá liệu một nội dung quảng cáo có gây nhầm lẫn hay không, JFTC có thể chỉ định một khoảng thời gian hợp lý cho doanh nghiệp cung cấp các bằng chứng xác thực chứng minh cho các nội dung quảng cáo đó; Nếu doanh nghiệp không cung cấp được các bằng chứng này trong khoảng thời gian hợp lý trên, nội dung quảng cáo đó có thể bị xác định là chỉ dẫn gây nhầm lẫn.

Luật điều chỉnh hành vi bán hàng đa cấp: HHHHHành vi bán hàng đa cấp bất chính được quy định chi tiết tại hai bộ luật của Nhật là Luật về các giao dịch thương mại đặc biệt và Luật cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp. Luật về các giao dịch thương mại đặc biệt bắt buộc các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo các hình thức bán hàng tận cửa (door to door sales), bán hàng qua thư điện tử, bán hàng qua điện thoại, bán hàng đa cấp… phải tuân theo các quy tắc đã được quy định trong Luật. Các quy định bắt buộc trong Luật này gồm:

1) Phải thông tin trước và rõ ràng tới đối tác về tên, mục đích và chủng loại hàng hóa hoặc dịch vụ;

2) (Đối với hoạt động quảng cáo bán hàng đa cấp) cấm tạo ra các chỉ dẫn gây nhầm lẫn về chất lượng của hàng hóa hay nội dung của quyền sử dụng các điều kiện thuận lợi;

3) Phải cung cấp đầy đủ tài liệu về sơ lược hoạt động bán hàng đa cấp của công ty cho người tham gia trước khi ký kết hợp đồng;

4) Cấm các hành vi:

(i) Cố tình che giấu sự thật hoặc các thông tin nhầm lẫn về chủng loại, mẫu mã, hoặc chất lượng của hàng hóa, che đậy các vấn đề liên quan đến các ràng buộc trách nhiệm đã được quy định, các vấn đề liên quan đến sự hủy bỏ, liên quan đến lợi nhuận đã được quy định…

(ii) Đe dọa hoặc gây rối một người nhằm khiến anh ta/ cô ta miễn cưỡng ký hợp đồng hoặc nhằm cản trở người đó hủy bỏ hợp động đã ký với công ty bán hàng đa cấp;

(iii) Dụ dỗ một người ký hợp đồng bán hàng đa cấp tại một địa điểm không phải địa điểm công cộng hoặc trụ sở kinh doanh của Công ty;

Luật Cấm bán hàng đa cấp dạng hình tháp là luật cấm hoàn toàn các dạng bán hàng đa cấp nào thực hiện theo phương thức hình tháp. Đây là một hệ thống tập hợp và phân phối tiền dựa trên sự gia tăng không giới hạn số người tham gia vào mạng lưới đa cấp, bằng cách người tham gia trước có thể nhận được lợi nhuận dựa vào tiền tham gia mạng lưới của những người gia nhập sau.

Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh: Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh của Nhật ra đời từ năm 1934 gồm 22 điều và một số điều khoản bổ sung qua các lần sửa đổi điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được đề cập trong Đạo luật này gồm 15 hành vi, được quy định cụ thể tại Khoản 1 Điều 2 với nội dung: Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị điều chỉnh bởi Luật này bao gồm:

– Điểm (1) (2) qui định về các hành vi sử dụng chỉ dẫn giống hoặc tương tự với chỉ dẫn đã nổi tiếng của hàng hóa của một doanh nghiệp khác.

– (3) Hành vi làm nhái mẫu mã hàng hóa của doanh nghiệp khác.

– Các điểm (4),(5),(6),(7),(8),(9) qui định về các hành vi liên quan đến việc tiếp cận và sử dụng bí mật kinh doanh một cách không chính đáng .

– Điểm (10), (11): các hành vi tiếp cận, phát tán, cung cấp các thiết bị có chức năng duy nhất là kích hoạt các hình ảnh, âm thanh, các chương trình, đoạn phim… đã bị cấm .

– (12) Hành vi tiếp cận, nắm giữ hay sử dụng tên miền giống hay tương tự với chỉ dẫn hàng hóa hay dịch vụ của người khác.

– (13) Hành vi đưa thông tin sai về hàng hóa hay dịch vụ (thông tin về nơi sản xuất, chất lượng sản phẩm, nội dung…).

– (14) Hành vi gièm pha nói xấu đối thủ cạnh tranh.

– (15) Hành vi sử dụng thương hiệu giống hoặc tương tự với thương hiệu đã được bảo hộ mà không có căn cứ pháp lý hợp pháp.

Như vậy, tương ứng với 9 hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh Việt Nam, Nhật Bản đều có những quy định tương tự, chỉ khác là được quy định cụ thể và chi tiết hơn trong những bộ luật khác nhau. Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong việc ban hành Luật và Chính sách cạnh tranh ở châu Á, vì vậy những kinh nghiệm của Nhật Bản trong lĩnh vực này có thể sẽ rất bổ ích cho Việt Nam.

Hoàng Thị Thu Trang.

tin mới cùng chuyên mục

Danh mục khác

Qua phản ánh của người dân, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia – Bộ Công Thương (UBCTQG) đã thu thập được một số thông tin liên quan đến dấu hiệu hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp không phép liên quan đến Công ty Cổ phần Thương